Ý nghĩa của tràng hạt và Tìm Hiểu Tràng Hạt 108 Đeo Tay

Tràng hạt khởi nguồn từ Ấn Độ và đã trở nên một vật quan yếu trong đời sống tín ngưỡng, văn hóa của tín đồ những tôn giáo và trong xã hội Ấn Độ cổ. Với Phật giáo, tràng hạt là vật tùy thân giúp cho hành fake dễ dàng chuyên chú vào đối tượng trì niệm, là một sợi dây xâu suốt các ý tưởng thành một trật tự, từ ấy hành giả sở hữu thể đi sâu hơn vào các trạng thái của định để khiến cho phát khởi tuệ giác.

Cũng như chuông, mõ, tràng hạt là 1 công cụ trong muôn vàn dụng cụ tu tập của Phật giáo. Trong Phật giáo, toàn bộ hình thức pháp khí hay vật thể đều là các phương tiện. Tuy nhiên, không nên vô cớ mà người ta bày ra. Dĩ nhiên, mỗi một hình thức của 1 vật thể đều sở hữu một ý nghĩa biểu tượng đặc biệt của nó.

Nguồn gốc của tràng hạt

 Không chỉ Phật giáo mới đề cập đến chuỗi hạt và chỉ dẫn việc tiêu dùng chuỗi hạt để đạt được những giá trị trên con đường tu tập. Người ta sở hữu thể thấy, pháp môn lần tràng hạt niệm Phật của Phật giáo rất sắp gũi sở hữu bí quyết lần tràng hạt trong lúc nguyện cầu của Bà la môn giáo, 1 lối nguyện cầu vô cùng phồn thịnh hành của những vị Bà la môn. Bên cạnh đó, người Ấn giáo theo phái thờ thần Siva cũng tiêu dùng 1 loại hạt gọi là rudrāka để xâu thành tràng hạt. Truyền thuyết nói rằng, có lần vị thần này ngắm nhìn thế gian, thấy chúng sinh sống trong nỗi khổ đau không sao nói hết cần đã đau lòng nhỏ xuống các giọt nước mắt, những giọt nước mắt này mọc thành cây rồi cho ra các hạt đỏ thẫm. Người ta đã lấy những hạt đấy làm thành tràng hạt để cầu nguyện trong sự tưởng nhớ tới tấm lòng từ bi của thần Siva. Hạt ấy chính là hạt xoàn mà hiện tại chúng ta vẫn sử dụng để làm cho tràng hạt. Trong quan niệm của người Ấn Độ, vô thiến tử và rudrāka đều là các chiếc hạt thiêng, sở hữu khả năng trừ ma chướng. Điều này có lẽ 1 phần do dược tính của chúng, như vô thiến tử, còn với tên là bồ đề tử, là một vị thuốc chủ trị nhiệt, đàm, sát trùng…
 
 Tuy nhiên, trong Kinh điển Phật Giáo, loại khởi nguyên của tràng hạt và lần chuỗi hạt khi niệm Phật, đa số đều căn cứ vào sự khai thị của Đức Phật đối với Vua Ba Lưu Ly đã được biên chép lại trong Kinh Mộc Hoạn Tử. Kinh Mộc Hoạn Tử, chép rằng: Một thời Đức Phật cộng giáo đoàn của ngài du hóa trong núi Kỳ Xà Quật (Grdhrakùta), nước La Duệ Kỳ (Ràjagrha) quốc vương trong thời nạn đấy tên là Ba Lưu Ly, sai sứ fake tới chốn Phật để xin Thế Tôn đặc trưng rủ lòng thương xót, cho pháp yếu để sở hữu thể tu hành được dễ dàng và trong đời ngày mai xa lìa được đa số khổ não. Đức Phật bảo sứ giả về thưa với nhà vua rằng: trường hợp nhà vua muốn diệt được phiền não chướng, báo chướng cần xâu một chuỗi tràng 108 hạt bằng hạt cây tra (mộc thiến tử) và thường đem theo mình; lúc đi, lúc ngồi, khi nằm thường buộc phải chí tâm, không phân tán ý, xưng danh hiệu: Phật, Pháp, Tăng mỗi lần, lần qua 1 hạt cây tra. Cứ như thế, tuần tự qua hạt này đến hạt khác, như: mười hạt, hai mươi hạt, trăm hạt, nghìn hạt, cho đến trăm nghìn vạn hạt. Nếu lần được đủ hai mươi vạn lượt, mà thân tâm không tán loạn, ko mang các siểm khúc, thời khi xả thân này được sinh lên cõi Diệm Thiên trang bị ba. Lên đấy, y, thực tự nhiên, thường an lạc hạnh. Nếu lại lần đủ được một trăm vạn lượt, sẽ dứt hẳn được 1 trăm tám kết nghiệp, mới gọi là vị chứng được quả Tu-Đà-Hoàn (ngược dòng sinh tử), hướng tới đạo Niết bàn, dứt hẳn cội gốc phiền não và chức được quả vô thượng. Tràng hạt trong Phật giáo xây dựng thương hiệu từ đấy. Các tăng sỹ thường mang theo bên mình tràng hạt như là một bảo bối, 1 pháp khí quan trọng để hỗ trợ họ trên con đường tu học Phật pháp.

Như vậy, sở hữu thể thấy, dù trong truyền thống văn hóa cổ xưa của Ấn Độ và trong những nền văn minh khác của nhân loại, chuỗi hạt đã với từ lâu và gắn với mỗi cộng đồng xã hội nó có 1 ý nghĩa biểu trưng hay giá trị thẩm mỹ khác nhau. Nhưng sở hữu Phật giáo, tràng hạt được nhắc mang vai trò của pháp phương tiện, là pháp khí, là công cụ để tương trợ việc tu hành đạt giác ngộ.
Số lượng của chuỗi hạt

Theo Kinh Mộc Hoạn Tử nêu ở trên, tràng hạt của Phật giáo gồm sở hữu 108 hạt, con số này cũng giống mang những giáo phái khác ở Ấn Độ. Tuy nhiên, về sau, để lợi ích cho những nghi thức hành lễ, tràng hạt được xâu bởi chuỗi hạt với những số lượng ít hơn, như 54, 27 hạt hoặc 36, 18 hạt. Con số 108 này tượng trưng cho 108 phiền não gồm 88 kiến hoặc, 10 tư hoặc và 10 triền. Ngoài ra, con số 108 còn được giải thích theo nhiều bí quyết khác nữa. Người ta nhận thấy rằng số hạt thường là tương đương mang số lượng của đối tượng được niệm, trong niệm danh hiệu Phật thì với 108 danh hiệu, trong Ấn giáo thì có 108 bộ Áo nghĩa thư. 108 = 6x3x2x3, ấy là 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp) x 3 thời (quá khứ, ngày nay và vị lại) x 2 trạng thái của tâm (nhiễm và tịnh) x 3 tràng hạt có bao nhiêu hạt xuongtranhtuongphat.com trạng thái của thọ (ưa, không ưa và trung lập). 108 còn là con số 11 x 22 x 33 = 1 x 4 x 27. Đây với lẽ là những quan niệm thúc đẩy đến vấn đề số học của người Ấn Độ xưa. Trong hình ngôi sao năm cánh, góc bù được tạo buộc phải bởi 2 cạnh cắt nhau là 1080. Người ta kể rằng ở Ấn Độ sở hữu 108 điệu múa. Trong cơ thể chúng ta có 108 luân xa. Các nhà chiêm tinh cho rằng đường kính mặt trời to bằng 108 lần đường kính trái đất. Trong con số 108, số 1 tượng trưng cho sự hợp nhất, nghĩa là nhất; số 8 là vô cùng, tức là dị; số 0 là trung gian, là trung đạo có nghĩa không, tánh không. Tựu trung, con số 108 được giải thích dưới đa dạng góc độ khác nhau, và rõ ràng nó sở hữu ý nghĩa tượng trưng cực kỳ quan yếu trong quan niệm người Ấn Độ. Ở chừng mực nào đó, với thể đề cập rằng con số 108 này cũng kỳ diệu như chỉ số PHI (φ) 1.618 trong truyền thống Hi Lạp.

Theo Kinh Giảo Lượng Sổ Châu Công Đức, và theo Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Châu sở hữu sự ghi chép bất đồng, tràng hạt sở hữu các chiếc như sau:  - Căn cứ Kinh Mộc Hoạn Tử dạy khiến cho chuỗi 108 hạt.  - Kinh Đà Ra Ni Tập quyển 2 phẩm Tác Châu Pháp Tướng, thì nêu ra với 4 dòng chuỗi: 108 hạt, 54 hạt, 42 hạt, 21 hạt.  - Kinh Sổ Châu Công Đức, cũng nêu ra 4 mẫu chuỗi, tức thị dòng 108 hạt, mẫu 54 hạt, dòng 27 hạt, và loại 14 hạt.  - Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Châu thì lấy 1.080 hạt khiến chuỗi bậc thượng, xâu 108 hạt làm chuỗi tối thắng, xâu 54 hạt khiến chuỗi bậc trung, xâu 27 hạt làm chuỗi bậc hạ.  - Phẩm Sổ Châu Nghi Tắc trong Kinh Văn Thù Nghi Quỹ bảo rằng: Chuỗi bậc thượng là 108 hạt, chuỗi bậc trung là 54 hạt, chuỗi bậc hạ là 27 hạt, chuỗi tối thượng là 1.080 hạt. Trong các tràng hạt sở hữu số lượng hạt như trên thì xâu chuỗi 108 hạt là rộng rãi hơn hết.

Trong tràng hạt với một hạt gọi là hạt Sumeru hay Meru, chúng ta thường gọi là hạt Tu di hoặc hạt Di đà, đó là hạt trang bị 109, là chỗ giáp nối của vòng tròn. Theo nghi thức, lúc lần tràng, không được vượt qua hạt này, lần tới hạt này thì lần ngược trở lại, như trong kinh Kim cương đỉnh du già niệm châu với câu: “Hạt giữa điển hình Phật Di đà, chớ lần qua, phạm tội việt pháp”. Tuy nhiên, trong việc xâu chuỗi hạt, tùy cách xâu mà sở hữu thể mang hoặc không sở hữu hạt thứ 109 này.

Ý nghĩa của tràng hạt

Căn cứ vào các pháp số tổng thành mà nó tượng trưng theo quan niệm của phật giáo, việc sử dụng tràng hạt sở hữu số hạt khác nhau, thì ý nghĩa biểu tượng của nó cũng với các khác biệt:

- Chuỗi 108 hạt là thể hiện cho cầu chứng 108 pháp Tam Muội mà đoạn trừ 108 phiền não.

- Chuỗi 54 hạt là miêu tả cho 54 cấp vị quá trình tu hành của Bồ Tát, tức thị Thập Tín, Thập Trú, Thập Hạnh. Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Tứ Thiện Căn Nhân Địa.

- Chuỗi 42 hạt là thể hiện cho 42 cấp vị giai đoạn tu hành của Bồ Tát, tức là Thập Trú, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng Giác, Diệu Giác.

- Chuỗi 27 hạt là mô tả cho 27 cấp vị của Tiểu Thừa tu hành Tứ Hướng Quả, tức thị 18 bậc Hữu Học của Tứ Hướng Tam Quả trước, với 9 bậc Vô Học của Đệ Tứ Quả A La Hán.

- Chuỗi 21 hạt là biểu thị cho 21 vị, nghĩa là Thập Địa, Thập Ba La Mật và quả vị Phật.

- Chuỗi 14 hạt là mô tả cho 14 Pháp Vô Úy của Bồ Tát Quán Thế Âm.

- Chuỗi 1.080 hạt là biểu lộ cho 10 cảnh giới, mỗi cảnh giới đều với 108, cho phải cùng thành 1.080.

Ý nghĩa của chuỗi 36 hạt và 18 hạt mang nhiều người cho là không tượng trưng cho pháp số nào trong Phật giáo, và cho rằng nó tương đồng mang chuỗi 108 hạt. Theo đó, để tiện cho sự mang đeo, bèn chia chuỗi 108 hạt ra thành 3 chuỗi, mỗi chuỗi sở hữu 36 hạt, hoặc chia chuỗi 108 hạt ra khiến cho 6 xâu, mỗi xâu với 18 hạt, mà ko nên mang thâm nghĩa nào cả.

Tuy vậy, chúng ta bắt buộc biết rằng, sự dị biệt của số hạt có các ý nghĩa biểu tượng khác nhau trên đây, là do các vị Bồ tát, hiền thánh tăng, sau lúc đức Phật nhập diệt, đã tùy duyên phó thác khiến phương tiện giáo hóa, mà không phải bắt nguồn từ văn của Kinh điển gốc đã nêu. Nghĩa là số lượng những hạt trên tràng hạt là không khăng khăng và bắt buộc.

Công dụng của tràng hạt

Tràng hạt là một đồ vật đa dạng trong phổ biến nền văn hóa trên thế giới. Nó được sử dụng như một vật dụng trang sức hoặc như một pháp khí tùy theo đối tượng sử dụng. Trong tôn giáo, tràng hạt được dùng để liên kết và thiết lập trơ trọi tự cho các lời cầu nguyện, các bài kinh, những kệ tán, những danh hiệu hoặc các thần chú trong lúc hành trì.

Với Phật giáo, tràng hạt là 1 pháp khí quen thuộc, việc dùng tràng hạt nhịn nhường như đã trở thành nét đặc thù của Tịnh độ tông. Theo lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông, người chế ra tràng hạt để niệm danh hiệu Phật chính là ngài Đạo Xước (562-645), người được tôn là tổ đồ vật 2 của Tịnh độ tông Trung Quốc. Còn mang Phật giáo Nam tông, từ lâu tràng hạt cũng đã dần dần phát triển thành 1 vật tùy thân không tính 8 vật (3 y, kim chỉ, bình bát, dây lưng, dao cạo và túi lọc nước) đã được Phật chế định.
Không bắt buộc ai niệm Phật cũng lần tràng hạt. Điều này, còn tùy theo căn tính và thói quen của mỗi người. Tuy nhiên, đối sở hữu các tín đồ, Phật tử tu theo Tịnh Độ tông, thì nên lần chuỗi để luôn thể bề đếm số đúng như lời mình đã phát nguyện.  Bởi vì đối sở hữu các người sơ cơ, rộng rãi nghiệp chướng, tâm chưa thuần nhất, còn đầy vọng tưởng tạp loạn, thì việc tiêu dùng tràng hạt khi niệm Phật để dễ định tâm hơn. Hơn nữa, người tu tịnh nghiệp, thì tam nghiệp (thân, khẩu, ý) buộc phải bắt buộc giữ thanh tịnh. Tay lần chuỗi thuộc về thân nghiệp, miệng niệm Phật thuộc về khẩu nghiệp, ý chăm chú vào câu hiệu Phật không rời ra, thuộc về ý nghiệp. Kinh Phật dậy: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”, nghĩa là ba nghiệp đều thanh tịnh thì cộng Phật vãng sinh về Tây phương cực lạc. Như vậy, tay lần chuỗi cũng là mục tiêu để ghi nhớ mỗi 1 hạt chuỗi là niệm 1 câu hiệu Phật, song song cũng là phương pháp ghi nhớ số, để ko nhầm lẫn vậy.
Công dụng của chuỗi hạt chỉ là một dụng cụ như muôn ngàn công cụ khác. Người ta sử dụng nó để niệm Phật. Nhờ lần chuỗi ghi số câu mà tâm ít tán loàn hơn. Tuy nhiên, điểm cơ bản để diệt trừ phiền não, chính là ở nơi mẫu tâm. Người niệm Phật, tay lần chuỗi mà tâm lăng xăng, tán loạn, luôn nghĩ tà vạy, thì dù mồm với niệm Phật, tay lần tràng hạt, cũng không thể nào mang kết quả định tâm được./.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *