Ý nghĩa của tràng hạt và Tìm Hiểu Cách Lần Tràng Hạt Đeo Tay

Tràng hạt khởi nguồn từ Ấn Độ và đã trở thành một vật quan yếu trong đời sống tín ngưỡng, văn hóa của giáo đồ những tôn giáo và trong xã hội Ấn Độ cổ. Với Phật giáo, tràng hạt là vật tùy thân giúp cho hành fake dễ dàng chăm chú vào đối tượng trì niệm, là một sợi dây xâu suốt những ý tưởng thành một trơ tráo tự, từ ấy hành fake với thể đi sâu hơn vào những trạng thái của định để làm khởi phát tuệ giác.

Cũng như chuông, mõ, tràng hạt là một dụng cụ trong muôn vàn dụng cụ tu tập của Phật giáo. Trong Phật giáo, tất cả hình thức pháp khí hay vật thể đều là những phương tiện. Tuy nhiên, không phải vô cớ mà người ta bày ra. Dĩ nhiên, mỗi một hình thức của 1 vật thể đều mang một ý nghĩa tượng trưng đặc trưng của nó.

Nguồn gốc của tràng hạt

 Không chỉ Phật giáo mới nhắc đến chuỗi hạt và hướng dẫn việc dùng chuỗi hạt để đạt được các giá trị trên con đường tu tập. Người ta với thể thấy, pháp môn lần tràng hạt niệm Phật của Phật giáo rất sắp gũi với bí quyết lần tràng hạt trong khi cầu nguyện của Bà la môn giáo, một lối cầu nguyện rất hưng thịnh hành của những vị Bà la môn. Bên cạnh đó, người Ấn giáo theo phái thờ thần Siva cũng sử dụng một chiếc hạt gọi là rudrāka để xâu thành tràng hạt. Truyền thuyết nhắc rằng, với lần vị thần này ngắm nhìn thế gian, thấy chúng sinh sống trong nỗi khổ cực không sao nhắc hết phải đã đau lòng nhỏ xuống những giọt nước mắt, các giọt nước mắt này mọc thành cây rồi cho ra những hạt đỏ thẫm. Người ta đã lấy các hạt đấy khiến cho thành tràng hạt để nguyện cầu trong sự tưởng nhớ tới tấm lòng từ bi của thần Siva. Hạt ấy chính là hạt kim cương mà hiện tại chúng ta vẫn sử dụng để làm tràng hạt. Trong quan niệm của người Ấn Độ, vô hoán vị tử và rudrāka đều là những mẫu hạt thiêng, mang khả năng trừ ma chướng. Điều này mang lẽ một phần do dược tính của chúng, như vô hoạn tử, còn có tên là bồ đề tử, là một vị thuốc chủ trị nhiệt, đàm, sát trùng…
 
 Tuy nhiên, trong Kinh điển Phật Giáo, chiếc khởi nguyên của tràng hạt và lần chuỗi hạt khi niệm Phật, mọi đều căn cứ vào sự khai thị của Đức Phật đối với Vua Ba Lưu Ly đã được biên chép lại trong Kinh Mộc Hoạn Tử. Kinh Mộc Hoạn Tử, chép rằng: Một thời Đức Phật cùng giáo đoàn của ngài du hóa trong núi Kỳ Xà Quật (Grdhrakùta), nước La Duệ Kỳ (Ràjagrha) quốc vương trong thời nạn đó tên là Ba Lưu Ly, sai sứ nhái tới chốn Phật để xin Thế Tôn đặc thù rủ lòng thương xót, cho pháp yếu để mang thể tu hành được dễ dàng và trong đời mai sau xa lìa được hầu hết khổ não. Đức Phật bảo sứ kém chất lượng về thưa có nhà vua rằng: trường hợp nhà vua muốn diệt được phiền não chướng, báo chướng phải xâu 1 chuỗi tràng 108 hạt bằng hạt cây tra (mộc thiến tử) và thường đem theo mình; lúc đi, khi ngồi, khi nằm thường buộc phải chí tâm, không phân tán ý, xưng danh hiệu: Phật, Pháp, Tăng mỗi lần, lần qua 1 hạt cây tra. Cứ như thế, tuần tự qua hạt này tới hạt khác, như: mười hạt, hai mươi hạt, trăm hạt, nghìn hạt, cho đến trăm nghìn vạn hạt. Nếu lần được đủ hai mươi vạn lượt, mà thân tâm không tán loạn, ko mang các siểm khúc, thời khi xả thân này được sinh lên cõi Diệm Thiên thiết bị ba. Lên đấy, y, thực tự nhiên, thường an lạc hạnh. Nếu lại lần đủ được 1 trăm vạn lượt, sẽ dứt hẳn được 1 trăm tám kết nghiệp, mới gọi là vị chứng được quả Tu-Đà-Hoàn (ngược loại sinh tử), hướng tới đạo Niết bàn, dứt hẳn cội gốc phiền não và chức được quả vô thượng. Tràng hạt trong Phật giáo xây dựng thương hiệu từ đấy. Các tăng sỹ thường sở hữu theo bên mình tràng hạt như là một bảo bối, 1 pháp khí quan trọng để hỗ trợ họ trên con đường tu học Phật pháp.

Như vậy, sở hữu thể thấy, dù trong truyền thống văn hóa cổ xưa của Ấn Độ và trong những nền văn minh khác của nhân loại, chuỗi hạt đã mang từ lâu và gắn với mỗi cộng đồng xã hội nó mang 1 ý nghĩa tượng trưng hay giá trị thẩm mỹ khác nhau. Nhưng có Phật giáo, tràng hạt được nói sở hữu vai trò của pháp phương tiện, là pháp khí, là phương tiện để tương trợ việc tu hành đạt giác ngộ.
Số lượng của chuỗi hạt

Theo Kinh Mộc Hoạn Tử nêu ở trên, tràng hạt của Phật giáo gồm mang 108 hạt, con số này cũng giống mang những giáo phái khác ở Ấn Độ. Tuy nhiên, về sau, để tiện lợi cho các nghi thức hành lễ, tràng hạt được xâu bởi chuỗi hạt với các số lượng ít hơn, như 54, 27 hạt hoặc 36, 18 hạt. Con số 108 này tượng trưng cho 108 phiền não gồm 88 kiến hoặc, 10 tư hoặc và 10 triền. Ngoài ra, con số 108 còn được giải thích theo rộng rãi cách khác nữa. Người ta nhận thấy rằng số hạt thường là tương đương có số lượng của đối tượng được niệm, trong niệm danh hiệu Phật thì có 108 danh hiệu, trong Ấn giáo thì có 108 bộ Áo nghĩa thư. 108 = 6x3x2x3, ấy là 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp) x 3 thời (quá khứ, hiện nay và vị lại) x 2 trạng thái của tâm (nhiễm và tịnh) x 3 trạng thái của thọ (ưa, không ưa và trung lập). 108 còn là con số 11 x 22 x 33 = 1 tràng hạt gỗ sưa x 4 x 27. Đây có lẽ là các quan niệm thúc đẩy đến vấn đề số học của người Ấn Độ xưa. Trong hình ngôi sao năm cánh, góc bù được tạo nên bởi 2 cạnh cắt nhau là 1080. Người ta nói rằng ở Ấn Độ có 108 điệu múa. Trong cơ thể chúng ta có 108 luân xa. Các nhà chiêm tinh cho rằng đường kính mặt trời to bằng 108 lần đường kính trái đất. Trong con số 108, số 1 tượng trưng cho sự hợp nhất, nghĩa là nhất; số 8 là vô cùng, nghĩa là dị; số 0 là trung gian, là trung đạo với nghĩa không, tánh không. Tựu trung, con số 108 được giảng giải dưới đa dạng góc độ khác nhau, và rõ ràng nó mang ý nghĩa biểu tượng siêu quan yếu trong quan niệm người Ấn Độ. Ở chừng mực nào đó, có thể kể rằng con số 108 này cũng kỳ diệu như chỉ số PHI (φ) 1.618 trong truyền thống Hi Lạp.

Theo Kinh Giảo Lượng Sổ Châu Công Đức, và theo Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Châu với sự biên chép bất đồng, tràng hạt sở hữu những mẫu như sau:  - Căn cứ Kinh Mộc Hoạn Tử dạy làm chuỗi 108 hạt.  - Kinh Đà Ra Ni Tập quyển 2 phẩm Tác Châu Pháp Tướng, thì nêu ra mang 4 cái chuỗi: 108 hạt, 54 hạt, 42 hạt, 21 hạt.  - Kinh Sổ Châu Công Đức, cũng nêu ra 4 dòng chuỗi, tức là chiếc 108 hạt, cái 54 hạt, loại 27 hạt, và mẫu 14 hạt.  - Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Châu thì lấy 1.080 hạt làm cho chuỗi bậc thượng, xâu 108 hạt khiến chuỗi tối thắng, xâu 54 hạt khiến chuỗi bậc trung, xâu 27 hạt khiến chuỗi bậc hạ.  - Phẩm Sổ Châu Nghi Tắc trong Kinh Văn Thù Nghi Quỹ bảo rằng: Chuỗi bậc thượng là 108 hạt, chuỗi bậc trung là 54 hạt, chuỗi bậc hạ là 27 hạt, chuỗi tối thượng là 1.080 hạt. Trong những tràng hạt có số lượng hạt như trên thì xâu chuỗi 108 hạt là rộng rãi hơn hết.

Trong tràng hạt mang một hạt gọi là hạt Sumeru hay Meru, chúng ta thường gọi là hạt Tu di hoặc hạt Di đà, đó là hạt thứ 109, là chỗ giáp nối của vòng tròn. Theo nghi thức, lúc lần tràng, không được vượt qua hạt này, lần tới hạt này thì lần ngược trở lại, như trong kinh Kim cương đỉnh du già niệm châu có câu: “Hạt giữa tiêu biểu Phật Di đà, chớ lần qua, phạm tội việt pháp”. Tuy nhiên, trong việc xâu chuỗi hạt, tùy cách xâu mà với thể sở hữu hoặc không mang hạt thiết bị 109 này.

Ý nghĩa của tràng hạt

Căn cứ vào các pháp số tổng thành mà nó biểu tượng theo quan niệm của phật giáo, việc dùng tràng hạt sở hữu số hạt khác nhau, thì ý nghĩa tượng trưng của nó cũng mang những khác biệt:

- Chuỗi 108 hạt là diễn tả cho cầu chứng 108 pháp Tam Muội mà đoạn trừ 108 phiền não.

- Chuỗi 54 hạt là bộc lộ cho 54 cấp vị quá trình tu hành của Bồ Tát, tức là Thập Tín, Thập Trú, Thập Hạnh. Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Tứ Thiện Căn Nhân Địa.

- Chuỗi 42 hạt là biểu thị cho 42 cấp vị quá trình tu hành của Bồ Tát, nghĩa là Thập Trú, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng Giác, Diệu Giác.

- Chuỗi 27 hạt là trình bày cho 27 cấp vị của Tiểu Thừa tu hành Tứ Hướng Quả, tức là 18 bậc Hữu Học của Tứ Hướng Tam Quả trước, mang 9 bậc Vô Học của Đệ Tứ Quả A La Hán.

- Chuỗi 21 hạt là bộc lộ cho 21 vị, tức thị Thập Địa, Thập Ba La Mật và quả vị Phật.

- Chuỗi 14 hạt là mô tả cho 14 Pháp Vô Úy của Bồ Tát Quán Thế Âm.

- Chuỗi 1.080 hạt là diễn đạt cho 10 cảnh giới, mỗi cảnh giới đều mang 108, cho cần cùng thành 1.080.

Ý nghĩa của chuỗi 36 hạt và 18 hạt mang rộng rãi người cho là không biểu tượng cho pháp số nào trong Phật giáo, và cho rằng nó tương đồng với chuỗi 108 hạt. Theo đó, để một thể cho sự có đeo, bèn chia chuỗi 108 hạt ra thành 3 chuỗi, mỗi chuỗi sở hữu 36 hạt, hoặc chia chuỗi 108 hạt ra làm cho 6 xâu, mỗi xâu với 18 hạt, mà không buộc phải với thâm nghĩa nào cả.

Tuy vậy, chúng ta cần biết rằng, sự dị biệt của số hạt mang những ý nghĩa tượng trưng khác nhau trên đây, là do những vị Bồ tát, hiền thánh tăng, sau lúc đức Phật nhập diệt, đã tùy duyên giao phó khiến công cụ giáo hóa, mà ko bắt buộc bắt nguồn từ văn của Kinh điển gốc đã nêu. Nghĩa là số lượng những hạt trên tràng hạt là không một mực và bắt buộc.

Công dụng của tràng hạt

Tràng hạt là 1 thứ rộng rãi trong phổ biến nền văn hóa trên thế giới. Nó được tiêu dùng như 1 trang bị trang sức hoặc như một pháp khí tùy theo đối tượng sử dụng. Trong tôn giáo, tràng hạt được dùng để kết liên và thiết lập đơn côi tự cho những lời cầu nguyện, những bài kinh, những kệ tán, những danh hiệu hoặc những thần chú trong lúc hành trì.

Với Phật giáo, tràng hạt là một pháp khí quen thuộc, việc tiêu dùng tràng hạt nhường nhịn như đã vươn lên là nét đặc biệt của Tịnh độ tông. Theo lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông, người chế ra tràng hạt để niệm danh hiệu Phật chính là ngài Đạo Xước (562-645), người được tôn là tổ đồ vật 2 của Tịnh độ tông Trung Quốc. Còn có Phật giáo Nam tông, từ lâu tràng hạt cũng đã dần dần trở nên một vật tùy thân ko kể 8 vật (3 y, kim chỉ, bình bát, dây lưng, dao cạo và túi lọc nước) đã được Phật chế định.
Không buộc phải ai niệm Phật cũng lần tràng hạt. Điều này, còn tùy theo căn tính và lề thói của mỗi người. Tuy nhiên, đối có các tín đồ, Phật tử tu theo Tịnh Độ tông, thì phải lần chuỗi để tiện thể bề đếm số đúng như lời mình đã phát nguyện.  Bởi vì đối sở hữu các người sơ cơ, phổ biến nghiệp chướng, tâm chưa thuần nhất, còn đầy vọng tưởng tạp loạn, thì việc sử dụng tràng hạt khi niệm Phật để dễ định tâm hơn. Hơn nữa, người tu tịnh nghiệp, thì tam nghiệp (thân, khẩu, ý) bắt buộc bắt buộc giữ thanh tịnh. Tay lần chuỗi thuộc về thân nghiệp, mồm niệm Phật thuộc về khẩu nghiệp, ý chăm chú vào câu hiệu Phật không rời ra, thuộc về ý nghiệp. Kinh Phật dậy: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”, nghĩa là ba nghiệp đều thanh tịnh thì cùng Phật vãng sinh về Tây phương cực lạc. Như vậy, tay lần chuỗi cũng là mục tiêu để ghi nhớ mỗi một hạt chuỗi là niệm một câu hiệu Phật, song song cũng là phương pháp ghi nhớ số, để không nhầm lẫn vậy.
Công dụng của chuỗi hạt chỉ là 1 dụng cụ như muôn vàn phương tiện khác. Người ta tiêu dùng nó để niệm Phật. Nhờ lần chuỗi ghi số câu mà tâm ít tán loàn hơn. Tuy nhiên, điểm căn bản để diệt trừ phiền não, chính là ở nơi mẫu tâm. Người niệm Phật, tay lần chuỗi mà tâm lăng xăng, tán loạn, luôn nghĩ tà vạy, thì dù miệng sở hữu niệm Phật, tay lần tràng hạt, cũng không thể nào với kết quả định tâm được./.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *